Áp thuế VAT 5% với phân bón giúp giá bán phân bón hạ thấp hơn, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất trong nước, tạo sự công bằng bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Dự thảo Luật Thuế GTGT sửa đổi đã được đưa ra thảo luận, dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. Trong đó, phương án áp thuế GTGT 5% đối với phân bón nhận được nhiều sự quan tâm vì không chỉ ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách, doanh nghiệp mà cả nông dân.
Dự thảo Luật Thuế GTGT sửa đổi đã dự thảo phương án áp thuế GTGT 5% đối với phân bón.
Theo đại biểu Trịnh Xuân An, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, những bất cập của Luật Thuế giá trị gia tăng kể từ khi có hiệu lực vào năm 2014 đến nay đã được Chính phủ nhìn nhận. Do vậy đã đề xuất sửa đổi, đưa phân bón vào diện chịu thuế nhằm đảm bảo công bằng cho sản xuất phân bón trong nước cũng như không gây tác động bất lợi với nông dân và nông nghiệp.
Tuy nhiên, đề xuất này hiện vẫn đang tồn tại những ý kiến khác nhau, trong đó có lo ngại đưa phân bón vào diện chịu thuế 5% sẽ tác động tới giá phân bón. Vì vậy, tác động của việc đưa phân bón vào diện chịu thuế 5% cần được đánh giá khoa học, thấu đáo, bao trùm dựa trên lợi ích tổng thể của cả nền kinh tế để có quyết sách về chính sách thuế đúng đắn.
Theo ông Trịnh Xuân Anh, không thể nhìn nhận một cách cơ học rằng tăng thuế là tăng giá bởi thuế giá trị gia tăng (thuế VAT) là thuế gián thu và thu trên giá trị tăng theo.
Theo kết quả nghiên cứu của Dự án tăng cường năng lực cạnh tranh khu vực tư nhân Việt Nam (IPSC) (dự án do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ và Cục Phát triển Doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư là chủ dự án), phương án chuyển phân bón sang áp dụng thuế VAT 5% sẽ giúp giá phân đạm ure, phân DAP và phân lân sản xuất trong nước có dư địa giảm. Cụ thể, phân đạm ure có thể giảm 2%, phân DAP có thể giảm 1,13%, phân lân có thể giảm 0,87%. Trong khi đó, giá NPK có thể tăng không đáng kể (0,09%) hoặc giữ nguyên, còn giá phân NPK nhập khẩu có thể tăng 5% do chính sách thuế.
Tuy nhiên, với cơ cấu thị trường thực tế, tiêu thụ phân bón sản xuất trong nước chiếm trên 70%, tiêu thụ phân bón nhập khẩu chiếm dưới 30%, việc áp thuế VAT 5% sẽ cho phép doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước dẫn dắt, điều chỉnh mặt bằng giá thị trường phân bón.
Đặc biệt, việc áp thuế VAT 5% với phân bón, giá bán phân bón sản xuất trong nước có dư địa giảm, tạo tác động tích cực, buộc các nhà nhập khẩu phân bón sẽ phải giảm giá bán phân bón nhập khẩu theo mặt bằng giá thị trường, từ đó đem lại lợi ích lớn cho bà con nông dân.
Ông Nguyễn Văn Được, Uỷ viên Thường trực Hội Tư vấn Thuế Việt Nam cho rằng, nếu áp thuế giá trị gia tăng 5% với phân bón thì hài hoà lợi ích của ba nhà là nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, đồng thời giảm bất cập “không có thuế mà giá bán lại cao hơn”.
Làm rõ hơn vấn đề áp thuế VAT 5% với phân bón, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh chỉ rõ, tất cả các hàng hoá dịch vụ được đưa ra tiêu thụ phải chịu thuế VAT với các mức độ khác nhau. Hiện UNDP và ADB đều đề xuất Việt Nam nên đánh thuế VAT 10% với phân bón bởi hầu hết các sản phẩm hàng hóa dịch vụ hiện nay trong nền kinh tế hầu hết đánh thuế 10%, rất ít mặt hàng đánh 5%.
Thực tế con số thuế VAT bình quân với hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam hiện ở mức 9,7% trong khi các nước trên thế giới đều trên 15%. Hiện nay, với bất cập về chính sách thuế VAT với phân bón, toàn bộ chi phí đầu vào cho sản xuất phân bón trong nước không được khấu trừ, được doanh nghiệp sản xuất cộng vào giá bán phân bón, do vậy, cuối cùng vẫn là người nông dân phải gánh chịu.
Tuy nhiên, PGS, TS Đinh Trọng Thịnh cho rằng, nếu áp thuế GTGT 10% hoặc 0% thì người nông dân sẽ không được lợi gì, mà còn bị thiệt thòi. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng không thu được thuế từ sản xuất trong nước lại càng không thu được thuế từ doanh nghiệp nước ngoài.
Do đó, đánh thuế 0% là không được mà 10% thì quá cao. Trong giai đoạn 2013-2014, qua khảo sát qua 4 doanh nghiệp phân bón lớn ở trong nước gồm Phân bón Phú Mỹ, Phân bón Cà Mau, Đạm Ninh Bình, Đạm Hà Bắc, giá đầu vào phân bón nhập vào là khoảng 3-4%. Nên áp thuế 5% vào phân bón có cơ sở đủ để khấu trừ phần chiết khấu thuế đầu vào cũng không làm tăng giá trị phân bón quá nhiều.
“Vì vậy đề xuất áp thuế VAT 5% với phân bón là mức thuế hợp lý để các doanh nghiệp lớn cho đến các doanh nghiệp nhỏ đều có thể khấu trừ thuế với nguyên vật liệu máy móc đầu vào, đảm bảo giá thành sản xuất phân bón cạnh tranh công bằng với phân bón nhập khẩu cùng chủng loại. Đồng thời, đảm bảo sản xuất hiệu quả và có nguồn đầu tư cho công nghệ tiên tiến cũng như nghiên cứu các sản phẩm phân bón hữu cơ, phân bón chất lượng cao, thân thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu phân bón cho sản xuất nông nghiệp xanh”, ông Thịnh nhận định.
Đồng thời ông cho biết, hiện có một số ý kiến lo ngại rằng nếu đưa phân bón trở lại diện chịu thuế VAT 5% thì các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón sẽ “tự động” cộng 5% thuế vào giá bán. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ không thể cộng thuế để đảm bảo cạnh tranh với sản phẩm phân bón trong nước khi doanh nghiệp sản xuất trong nước không tăng giá phân bón, thậm chí còn giảm giá bán nếu được khấu trừ thuế VAT đầu vào. Theo đó, doanh nghiệp nhập khẩu phải giảm khoản lợi nhuận lớn đã từng được hưởng trong thời gian dài trước đây để cạnh tranh với doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Văn Được cũng cho hay, việc áp thuế VAT 5% với phân bón không làm các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón bị ảnh hưởng nhiều do khi nhập khẩu chịu thuế VAT 5% và khi bán ra cũng chịu thuế VAT 5%. Như vậy, phương án áp thuế VAT 5% với phân bón vừa giúp giá bán phân bón hạ thấp hơn, vừa hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất trong nước, tạo sự công bằng bình đẳng giữa các doanh nghiệp, đồng thời có cơ sở mở rộng nguồn thu theo lộ trình và định hướng chung.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Lê Văn Ngân, Hiệp hội Phân bón Việt Nam khẳng định, khi áp dụng quy định thuế GTGT 5% chắc chắn doanh nghiệp sẽ đầu tư vào công nghệ, từ đó giúp Việt Nam có thêm các sản phẩm phân bón thế hệ mới, công nghệ cao, thân thiện với môi trường, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm phần lớn. Khi đó, Việt Nam sẽ có những cải tiến về năng suất, chất lượng nông sản, sản phẩm của Việt Nam đi ra thế giới sẽ dễ dàng hơn.